Ngày “giỗ tổ Hùng Vương”hay còn gọi là “Lễ Hội Đền Hùng” là một trong những lễ hội lớn mang tính quốc gia để tưởng nhớ các anh hùng đã có công dựng nước. Phong tục giỗ tổ Hùng Vương đã trở thành truyền thống văn hóa lâu đời ở nước ta. Đây là ngày mà tất cả mọi người là người Việt Nam trên khắp thế giới về đây để tận hưởng được giá trị của sự bình yên và sự hy sinh của những đồng bào có công và các Vua Hùng dựng nước. Đó là ngày hội toàn quốc, toàn dân và trong tâm thức dân gian Việt Nam nó mang tính thiêng liêng cao cả nhất. Lễ Hội được tổ chức hàng năm vào ngày 10 tháng 3 âm lịch tại Đền Hùng, VIệt Trì, Phú Thọ.
Ngày giỗ tổ Hùng Vương đã được công nhận là một trong những ngày quốc lễ của Việt Nam thể hiện rõ đạo lý “uống nước nhớ nguồn” hay “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” như một tinh thần văn hóa Việt Nam. Ngày này cũng được chính phủ Việt Nam cho phép những người lao động được nghỉ lễ kể từ năm 2007. Nhân dân Việt Nam có câu lưu truyền từ xa xưa:
”’Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba.”’
“Lễ Hội Đền Hùng” gồm có 2 phần: Phần tế lễ và phần Hội.
Phần tế lễ được tiến hàng rất trọng thể mang tính quốc lễ, lễ vật dâng cúng là “1 con lợn, 1 con bò, 1 con dê” hay thường gọi là Lễ Tam Sinh, bánh chưng, bánh dày và xôi nhiều màu, nhạc khí là trống đồng cổ. Sau khi một hồi trống đồng vang lên, các vị chức sắc vào tế lễ dưới sự điều khiển của chủ lễ. Tiếp theo đến các cụ bô lão của làng xã sở tại quanh đền Hùng vào tế lễ. Sau cùng là nhân dân và du khách hành hương vào tế lễ trong các đền thờ, tưởng niệm các vua Hùng.
Phần tế lễ xong là đến phần hội. Năm nào cũng vậy ở Lễ Hội Đền Hùng thường tổ chức cuộc thi kiệu của các làng xung quanh, làng nào cũng háo hức tham gia rước đám linh đình nên không khí lễ hội trở nên náo nhiệt hơn.Nếu như kiệu của làng nào được giải nhất năm nay thì đến kỳ hội sang năm sẽ được thay mặt các kiệu còn lại rước lên Đền Thượng để triều đình cử hành quốc lễ. Do vậy nếu kiệu nào được giải nhất thì đó là vinh dự và niềm tự hào lớn lao của dân làng ấy. Tuy nhiên để có được các đám rước mâm cỗ kiệu đẹp lộng lẫy thì người dân đã phải chuẩn bị rất công phu và chu đáo từ trước. Những khó khăn vất vả ấy đối với họ không đáng gì, mà điều quan trọng là họ đã vượt qua để đến với cái linh thiêng cao thượng và hướng về tổ tiên giống nòi. Đó là đời sống tâm linh của dân chúng, được biểu hiện rõ nét qua một hình thức sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng dân gian cổ truyền mang tính cộng cảm với cộng mệnh sâu sắc. Sinh hoạt văn hóa dân gian này đã thành nhu cầu không thể thiếu được đối với các cộng đồng làng xã cư trú quanh đền Hùng.
Mỗi một đám rước kiệu có 3 cỗ kiệu đi liền nhau, chúng đều được sơn son, thiếp vàng, chạm trổ rất tinh xảo. Cỗ kiệu đi đầu bày hương hoa, đèn nhang, trầu cau, chóe nước và bầu rượu. Cỗ kiệu thứ 2 có đặt hương án, bài vị của Thánh, có lọng và quạt cho với nhiều sắc màu trang hoàng tôn nghiêm. Cỗ thứ 3 rước bánh chưng và bánh dày, 1 cái thủ lợn luộc để nguyên, đi sau 3 cỗ kiệu này là các vị quan chức và bô lão trong làng. Các vị chức sắc thì mặc áo thụng theo kiểu các bá quan triều đình, còn các cụ bô lão cũng mặc áo thụng đỏ, hoặc mặc quần trắng, áo the, đầu đội khăn xếp. Trong hội đền Hùng, nhân ngày giỗ Tổ có tiến hành nghi lễ hát thờ (tục gọi là hát Xoan). Đây là một lễ thức rất quan trọng và độc đáo.Mở đầu, ông trùm phường Xoan Kim Đức – phường nổi tiếng – cùng chủ tế đứng trước hương án hát chúc bằng bài khấn nguyện. Sau đó là một kép trẻ đeo trống nhỏ trước ngực ra làm trò giáo trống, giáo pháo. Tiếp theo, bốn cô đao ra hát thơ nhang và dâng hương bằng giọng hát lề lối. Rồi đến những bài ca ngợi thánh thần kết thúc phần nghi lễ của Xoan.
Ngoài sân đền Hạ, ở nơi thoáng đãng có đu tiên. Mỗi bàn đu có hai cô tiên (cô gái Mường trẻ mặc đẹp) ngồi. Đu quay được là do các cô luân phiên lấy chân đạp đất. Đu tiên là trò chơi đẹp mắt, nhịp nhàng của phụ nữ. Xung quanh khu vực dưới chân núi Hùng là các trò diễn và trò chơi dân gian cổ truyền, diễn ra rất sôi động, được nhiều người tham dự như trò chơi ném côn, chơi đu, đầu vật, chọi gà,… Những trò đánh cờ người và tổ tôm điếm được các cụ cao niên tâm đắc. Còn các đám trai gái tụm năm, tụm ba trên các đồi đó trổ tài hát ví, hát trống quân hoặc hát đối đáp giao duyên…Tối đến có tổ chức hát chèo, hát tuồng ở các bãi rộng ngay cửa đền Hạ hoặc đền Giếng…
Trải qua bao thời đại lịch sử tuy có lúc thịnh lúc suy nhưng lễ hội Đền Hùng thì đều được tổ chức hàng năm. Điều này đã thể hiện rõ bản lĩnh phi thường và nền văn hiến rực rỡ, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Người dân hành hương về đất Tổ không hề có sự phân biệt tôn giáo, chỉ cần là người Việt Nam thì trong tâm khảm họ đều có quyền tự hào là con cháu muôn đời của vua Hùng. Bởi vậy, hễ ai là người Việt Nam nếu có sẵn tâm thành và lòng ham muốn hành hương về đất Tổ thì tự mình có thể thực hiện ước nguyện chính đáng đó một cách dễ dàng và thuận tiện.